VĂN HÓA-XÃ HỘI
MIẾU THỜ (VŨ HỒN) - MỘ TRẠCH, XÃ TÂN HỒNG
29/03/2023 12:00:00

 

 
Làng Mộ Trạch là một trong bốn làng của xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Là một làng có dân số đông, có nhiều dòng họ khác nhau: họ Vũ, họ Lê, họ Nhữ, họ Nguyễn, họ Tạ, họ Cao, họ Đương, họ Trương... Trong đó, có dòng họ Vũ chiếm tỷ lệ cao nhất 87,3% dân số trong làng. Mộ Trạch ngày nay được Vũ Hồn lập ra với tên ban đầu là Khả Mộ trang (nghĩa là ấp đáng mến) thuộc huyện Đường An (Vũ Hồn đặt tên như vậy với mong muốn sự bình yên mãi mãi của nhà Đường). Vào khoảng thế kỷ thứ IX, cả khu vực quanh thôn đều gọi là làng Chằm (nghĩa là một vùng đất trũng). Mộ Trạch trước đây còn có tên gọi khác là làng Chằm Thượng, hai làng bên là Chằm Hạ và Chằm Trung (sau gọi là Nhuận Đông, Nhuận Tây, hay còn gọi là Hạ Trong, Hạ Ngoài).

 

 
 
Theo các tư liệu lịch sử được ghi và còn lưu trữ lại, đời nhà Đường bên Trung Quốc (618 – 907), khoảng năm 800, có một quan chức tên là Vũ Huy người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc. Vợ là Lưu Thị Phương. Hai ông bà đã nhiều tuổi, vẫn chưa có con cái. Ông Vũ Huy là một nhà nho, do đó thường than rằng: “Vàng núi thóc biển coi như cỏ rác, con hiếu,cháu hiền quý hơn châu ngọc”. Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường xin được nghỉ về làm trí sĩ. Vua Đường chuẩn y theo nguyện vọng để Vũ Huy từ quan trong Triều về làm người thường, lại còn ban phát cho xe ngựa, vàng bạc. Vũ Huy tạ ơn Vua Đường về quê sống cảnh an nhàn, đi du ngoạn. vốn tinh thông khao địa lý phong thủy, do đó trên đường đi du ngoạn về phương nam, đến vùng đất Giao Châu, khi ấy là khu vực đất thuộc đồng bằng Bắc Bộ bây giờ.

 Một hôm đi đến ấp Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu sau này là tỉnh Hải Dương, Vũ Huy thấy một dải đất đẹp ở khu cánh đồng mênh mông có 98 gò đất nhỏ bao quanh một gò đất cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời. Cái gò đất ấy tên địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lý - phong thủy nếu mộ táng ở đây con cháu sẽ phát sinh khoa bảng. Công danh hiển hách. Vũ Huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang an táng ở Đống Dờm, rồi làm nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ.

Ở làng Mạn Nhuế khi ấy có một thôn nữ Nguyễn Thị Đức con nhà nề nếp, tính tình đoan trang phúc hậu, chăm chỉ làm ăn lại có quý tướng sinh con quyền cao chức trọng. Có lẽ do duyên trời đã định, nên gia đình cô thôn nữ đã chấp nhận lời cầu hôn của Vũ Huy và ít lâu sau, hôn lễ đã được cử hành. Hơn một năm sau, bà Nguyễn Thị Đức có thai. Vũ Huy đưa bà về Phúc Kiến (thuộc đất mân Việt cũ). Ngày 08 tháng giêng năm Giáp Thân (804) bà sinh con trai. Ông bà đặt tên con là Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Hồn trông dáng dấp rất khôi ngô, tuấn tú, rất chịu khó học hành và rất thông minh. Năm 12 tuổi sức học Vũ Hồn đã làm cho các bậc đàn anh kính nể.

Năm 820, Vũ Hồn đã đỗ kỳ thi Đình khi mới 16 tuổi. Vua Đường rất khen ngợi và cho là nhân tài, vì ngoài thơ văn hay, sách lược giỏi, Vũ Hồn còn tinh thông cả khoa thiên văn – Địa lý – Phong thủy. Vua ban cho mũ áo để về vinh quy. Tuy còn trẻ tuổi nhưng có tài, vì vậy ít lâu sau vua Đường xuống chiếu bổ dụng Vũ Hồn làm Tả Thị Lang Bộ Lễ – một chức quan khá trong triều đình – vì Bộ Lễ phụ trách lễ nghi, cúng tế và thi cử trong nước. Hai năm sau Vũ Hồn được thăng chức Đô Đài Ngự Sử.

Năm 825 ( Ất Tỵ) đời vua Đường Kính Tông, niên hiệu Bảo lịch thứ nhất, Vũ Hồn được cử sang An Nam làm Thứ Sử Giao Châu.

Năm 841(Tân Dậu) đời Đường Vũ Tôn, niên hiệu Hội Xướng thứ nhất, Vũ Hồn được thăng chức kinh lược sứ thay Hàn Uớc. Trong thời gian ở An Nam, Kinh lược sứ Vũ Hồn đã đi kinh lý và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chủ ý việc tìm địa điểm nhằm định cư sau này vì ngài đã muốn chọn quê ngoại làm quê hương.

Theo phong thủy của người Trung Quốc, Vũ Hồn cho rằng nơi này là vùng đất có phong thủy tốt, giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Vũ Hồn cũng cho rằng cả vùng Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Chằm Thượng là huyệt kết. Vì vậy ông quyết định cắm đất lập trại và đặt tên làng là Khả Mộ. Nghĩa là vùng đất khi đó còn cằn cỗi nghèo nàn nhưng có thể sau này sẽ trở nên trù phú hơn và sẽ được mến mộ. Mãi đến sau này, vào triều nhà Trần (1226-1400) mới đổi tên là Mộ Trạch, nghĩa là vùng đất được mến mộ.

Tương truyền, sau khi lập làng, Vũ Hồn mở lớp dạy học, gây dựng đức tính hiếu học cho các thế hệ con cháu, từ đó mở ra truyền thống hiếu học cho làng.Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch được cho là khởi đầu bởi 2 anh em Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi (còn được chép là Nông hoặc Minh Nông). Cả hai đều là con của Vũ Nạp, theo cổ phả "Mộ Trạch Vũ tộc Thế hệ sự tích" do các Nho gia Vũ Phương Lan, Vũ Tông Hải và Vũ Thế Nho viết năm 1677-1679, thì: "Ông (Nạp) từ lúc nhỏ theo học nhà Nho, hiểu biết rộng cả các kinh điển đạo Thiền [tức Phật học]. Ông (Nạp) lấy đạo đức dạy con theo đường nghĩa lý. Hai con ông nối tiếp nhau thi đậu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: ""Nghiêu Tá (người Hồng Châu) với em là Nông đỗ cùng một khoa hồi Thượng hoàng còn ở ngôi vua (chỉ Trần Anh Tông)". Theo sách "Vũ tộc khoa hoạn phả ký" do Vũ Bật Hài thì Vũ Nghiêu Tá "là anh của Vũ Minh Nông. Ông là tổ khai khoa của họ Vũ làng Mộ Trạch" và về Vũ Minh Nông "Ông là em Vũ Nghiêu Tá, Hai anh em cùng thi đỗ thời Trần Minh Tông"

Theo bia văn chỉ "Lịch đại tiên hiền bi" dựng năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) của xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay là xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương thì cả Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đều là "người làng Mộ Trạch. Đỗ Thái học sĩ khoa Giáp Thìn". Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu hiện đại thì vẫn chưa thể xác định chính xác được Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đỗ khoa thi nào. Vũ Nghiêu Tá về sau làm đến chức quan Nhập nội hành khiển môn hạ hữu ti lang trung thời Trần Minh Tông.

Một trường hợp khác là Lê Cảnh Tuân cũng đỗ Thái học sinh. Sách Đại Nam nhất thống chí chép về Lê Cảnh Tuân "người huyện Đường An... Lúc trẻ có chí khí, đỗ Thái học sinh triều Trần".Theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và sách Từ điển bách khoa Việt Nam, Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh năm 1381. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na thì cho rằng ông thi đỗ Thái học sinh vào đời nhà Hồ.

Truyền thống khoa bảng của làng tiếp tục với Vũ Đức Lâm, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân vào năm 1448.

Vào thời điểm sau đó, làng Mộ Trạch đã trở nên đông đúc và đã phát tích khoa bảng rực rỡ, trong khoảng thời gian của triều  (1428-1789) làng Mộ Trạch đã có đến 36 vị đỗ tiến sĩ, mấy chục vị khác Đỗ hương cốngsinh đồtú tài; nhiều vị đảm đương các chức vị cao trong triều đình đương thời. Có gia đình mấy anh em cùng đỗ đại khoa; có chi họ, như chi họ Vũ Khắc đã đời nối đời đỗ đạt. Từ đó, tên làng Mộ Trạch đã tồn tại suốt gần tám trăm năm, cho đến ngày nay. Làng được vua Tự Đức ban tặng lời vàng: "Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ" (Mộ Trạch tài năng bằng nửa thiên hạ). Một số nhánh họ Vũ ở Mộ Trạch di cư về nơi khác đều có danh tiếng về sự đậu đạt mang lại sự vẻ vang cho vùng quê đó.

 
 

Dưới đây là danh sách 36 vị đỗ đại khoa của làng Mộ Trạch, được xác định bởi nhiều tài liệu và bia văn lịch sử. Trong danh sách này, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 09 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Trong khi đó họ Lê có 01 trạng nguyên, 02 hoàng giáp và 02 tiến sĩ. Những vị đại khoa không thuộc họ Vũ đều có mẹ là họ Vũ. Làng Mộ Trạch được người xưa gọi là “Tiến sĩ sào” (進士巢) (sào có nghĩa là tổ chim, ý nói: làng Mộ Trạch như một tổ chim ủ trứng ấp, nở ra nhiều người học giỏi, đạt được học vị cao quý)

1. Vũ Nghiêu Tá, Thái học sinh năm 1304, Tể tướng

2. Vũ Hán Bi, Thái học sinh năm 1304

3. Lê Cảnh Tuân, Thái học sinh năm 1381

4. Vũ Đức Lâm, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1448

5. Vũ Hữu, Hoàng giáp năm 1463,tác giả của Lập thành toán pháp

6. Vũ Ứng Khang, Hoàng giáp năm 1472

7. Vũ Quỳnh, Hoàng giáp năm 1478, người hiệu đính sách Lĩnh Nam chích quái

8. Vũ Đôn, Hoàng giáp năm 1487

9. Vũ Thuận Trinh, Hoàng giáp năm 1499

10. Vũ Cán, Hoàng giáp năm 1502,tác giả của Tùng Hiên thi tập và Tùng Hiên văn tập

11. Lê NạiTrạng nguyên năm 1505

12. Lê Tư, Hoàng giáp năm 1511

13. Vũ Lân Chỉ, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1520

14. Lê Quang Bí, Hoàng giáp năm 1526

15. Nhữ Mậu Tô, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1526

16. Vũ Tĩnh, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1562 (nhà Mạc)

17. Vũ Đường, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1565 (nhà Mạc)

18. Vũ Bạt Tụy, Hoàng giáp năm 1634

19. Vũ Lương, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1643

20. Vũ Trác Oánh, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656

21. Vũ Đăng Long, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656

22. Vũ Công Lượng, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1656

23. Vũ Cầu Hối, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659

24. Vũ Bật Hài, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659

25. Vũ Công Đạo, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659

26. Lê Công Triều, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1659

27. Vũ Duy Đoán, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664

28. Vũ Công Bình, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1664

29. Vũ Đình Lâm, hoàng giáp năm 1670

30. Vũ Duy Khuông, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1670

31. Vũ Đình Thiều, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1680

32. Vũ Trọng Trình, đồng tiến sĩ xuất thân năm 1685

33. Nguyễn Thường Thịnh, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1703

34. Vũ Đình Ân, Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1712

35. Vũ Phương Đề, Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1736, tác giả Công dư tiệp ký

36.Vũ Huy Đỉnh, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1754, Quốc tử giám Tế tửu

Làng Mộ Trạch còn là quê hương của các danh sĩ nổi tiếng như:

1. Lê Thiếu Dĩnh, con Thái học sinh Lê Cảnh Tuân, tác giả Tiết Trai thi tập

2. Vũ Huy Tấn, con Tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh, đỗ Hương cống (Cử nhân) năm Mậu Tý 1768.

Mộ Trạch là nơi xuất thuân của 5 trạng gồm: Trạng chữ Lê Nại, Trạng toán Vũ Hữu, Trạng cờ Vũ Huyến, Trạng vật Vũ Phong và Trạng chạy Vũ Cương Trực.

 
 

Hàng năm cứ vào ngày 8 tháng Giêng, tại Khu di tích lịch sử làng Mộ Trạch (xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), Ủy ban Nhân dân xã Tân Hồng tổ chức khai hội Lễ hội truyền thống làng tiến sỹ Mộ Trạch và kỷ niệm ngày sinh Đức Thần Tổ - Thành hoàng làng Vũ Hồn, ông tổ của dòng họ Vũ-Võ Việt Nam.

Lễ hội truyền thống làng Mộ Trạch không chỉ là ngày hội của người dân trong làng mà còn là dịp để con cháu dòng họ Vũ-Võ từ khắp mọi nơi tìm về quê cha, đất tổ để ôn lại và nhân rộng truyền thống hiếu học của mảnh đất này.

 

Làng Mộ Trạch là một ngôi làng cổ, nổi danh trong lịch sử là làng khoa bảng “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam, với 36 người đỗ tiến sỹ Nho học.

Danh tiếng khoa bảng làng Mộ Trạch được khẳng định qua câu: “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Chằm” (Chằm là tên xưa của làng Mộ Trạch). Khoa thi năm 1656, cả nước chọn được 6 tiến sỹ, riêng làng Mộ Trạch đỗ 3 tiến sỹ, vua Tự Đức đã khen ngợi chỉ riêng làng Mộ Trạch tài bằng nửa cả nước. Lễ hội làng Mộ Trạch có rước kiệu rồng. Lễ rước được bắt đầu từ miếu ra đình làng để các chức sắc, bô lão trong làng làm lễ tế Thành hoàng với 8 trai làng áo chẽn đỏ cùng khiêng, đầu chít khăn đỏ. Trên ngai cao có mũ, áo, hia màu vàng tượng trưng cho Vũ Hồn - ông tổ của làng. Hai bên có che hai cái tán ở trên Long ngai, đi đầu có bát bửu lộ-bộ, cờ, quạt và đi trước kiệu. Sau lễ rước kiệu và dâng hương tưởng nhớ ngày sinh Đức Thần Tổ, lễ hội diễn ra với các màn múa, hát, các trò chơi văn hóa dân gian.

 
 

Để động viên thế hệ trẻ tiếp nối truyền thống khoa bảng của cha ông, Ban khuyến học-khuyến tài của dòng họ đã trao tặng bằng Vũ tộc tinh hoa, bằng khen và phần thưởng cho các cá nhân có nhiều công lao đóng góp cho dòng họ và các em học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc trong học tập.

Kết quả giải quyết TTHC
Đến tháng 04 đã giải quyết:
100.0%
Số hồ sơ xử lý: 13742
Trước & đúng hạn: 13680
Trễ hạn: 6
Trễ hạn: 0%
Chi tiết
( Cập nhật lúc:25/04/2024 23:14:33)

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BÌNH GIANG

Trưởng Ban Biên tập: Ông Nhữ Văn Chuyên - Phó Chủ tịch UBND huyện Bình Giang

Địa chỉ: Số 55, Phạm Ngũ Lão, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, Hải Dương.

Điện thoại: 02203.777540

Email: vpubnd.bg@gmail.com

Số lượt truy cập
Đang truy cập: 4
Hôm nay: 95
Tháng này: 25,359
Tất cả: 314,361